Vừng có
tác dụng bổ
gan, thận,
nhuận ngũ
tạng...,
đồng thời
có thể dùng chữa bệnh chân
yếu cứng nhắc, ho hen, thiếu
sữa, thần kinh suy nhược,
sớm bạc tóc, huyết áp cao,
bệnh mỡ bọc tim. Xin giới
thiệu một số bài thuốc từ
loại hạt này.
Vừng có hai loại vừng đen và
vừng trắng, còn gọi là mè. Dùng
làm thuốc thường là loại vừng
đen. Vừng đen còn gọi là hồ ma,
hắc chỉ ma, cự thắng, cự thắng
tử, ô ma, ô ma tử, du ma, giao
ma, tiểu hổ ma. Vừng trắng còn
gọi là bạch du ma, bạch hổ ma.
Tính bình, vị ngọt. Thành phần
chính có: dầu béo 60%. Trong
dầu chứa nhiều loại axit, vitamin
E cùng sắt và calci. Phần lớn có
chất phòng bệnh chống suy lão.
Thường là thực phẩm chống suy
lão.
Tác dụng: Bổ gan, thận, nhuận
ngũ tạng, làm đen tóc, bổ dưỡng
cường tráng. Chủ yếu dùng cho
gan, thận yếu, tay chân yếu
cứng nhắc, hư phong, mắt mờ,
yếu sau khi ốm dậy, tuổi già ho
hen, thiếu sữa, thần kinh suy
nhược, sớm bạc tóc, huyết áp
cao, bệnh mỡ bọc tim.
Cách dùng: Uống: đun thành
thang hoặc cho vào viên hoàn.
Dùng bên ngoài đun nước mà
rửa hoặc đắp chỗ đau.
Kiêng kị: Tỳ yếu hay đi ngoài
lỏng thì không nên ăn nhiều
vừng.
Chữa trị:
1.Gan, thận yếu, mắt mờ, da mờ,
táo bón: Lá dâu tằm (phơi
sương bỏ cuống, phơi khô),
vừng đen (rang) lượng bằng
nhau. Xay thành bột, luyện với
mật ong làm viên hoàn. Ngày ăn
hai lần. Mỗi lần 6-9g. Có thể ăn
lâu dài.
2. Người đẻ thiếu sữa: Vừng
đen rang chín giã nhỏ, cho thêm
tí muối; Hoặc vừng đen 250g
rang chín giã, nấu chân giò lợn
nhừ mà ăn với vừng. Ngày ba
lần, mỗi lần 16g.
3. Trĩ sưng đau: Vừng đen đun
kỹ đem rửa chỗ đau.
4. Bị côn trùng cắn: Vừng đen
xay nhỏ đắp ngoài.
5. Trẻ con đầu bị chốc: Vừng
đen sống xay thành cao đắp
vào chỗ đau. Vừng trắng có thể
dùng chữa được.
6. Nhuận phế giải phiền, trơn
ruột thông tiện: a/ vừng trắng
60-90g đun thành canh, cho
thêm mật ong vừa lượng mà ăn;
b/ vừng, táo tàu mỗi loại 60g,
hạnh nhân 15g, ngâm nước sau
đánh nhuyễn đun chín cho thêm
đường mà ăn.
7. Dạ dày tiết nhiều chất chua:
Vừng đen đủ lượng rang lên
nhấm ăn.
8. Lao phổi: Vừng, nhân hạt óc
chó mỗi thứ 250g cùng giã nát
cho thêm mật ong khoảng 250g,
đánh đều làm viên. Mỗi viên
khoảng 9g. Mỗi ngày ba lần. Mỗi
lần một viên.
9. Tuổi già ho hen: Vừng 250g
(rang), gừng sống 125g (ép lấy
nước bỏ bã), dỉ đường, mật ong
125g (trộn đều nhau). Trộn
vừng và nước gừng với nhau
đánh đều, đem nấu một lần nữa.
Sau khi nguội, trộn với dỉ đường
và mật ong cho đều, bỏ vào lọ
dùng dần. Ngày hai lần, mỗi lần
một thìa canh. Uống với nước
sôi vào sáng và tối.
10. Trẻ con biếng ăn: Vừng rang,
nhị sửu rang mỗi thứ 30g, giã
bột trộn cơm cho trẻ ăn. Trẻ một
tuổi mỗi lần 1,5g. Cứ lớn hơn
một tuổi thì thêm 1g.
11. Đầu sớm bạc, tóc khô: Vừng,
hà thủ ô (đã chế biến) lượng
làm bằng nhau cùng xay thành
bột, thêm mật ong vừa đủ quấy
đều làm hoàn. Mỗi viên 6g. Ngày
ba lần, mỗi lần một viên. Ăn sau
khi ăn cơm. Dùng liền mấy ngày.
12. Yếu sau khi ốm dậy, táo bón
đau bụng chân tay yếu: Vừng
đen rửa sạch, sẩy sạch, hong
khô, rang chín, giã nhỏ, cho
thêm mật ong đủ lượng quấy
đều. Ngày ăn hai lần. Mỗi lần
10g. Dùng liên tục.
13. Bí đại tiện: Vừng 150g, ruột
quả óc chó 100g, đun chín đánh
nhuyễn mà ăn, ngày một lần.
14. Đi ngoài ra máu: Vừng,
đường đỏ lượng bằng nhau.
Rửa sạch vừng phơi khô rang
vàng cho vào đường trộn đều.
Ăn tùy thích.
15. Chống suy lão: Vừng (rang),
bột phục linh, lượng bằng nhau.
Dỉ đường vừa đủ, đun cho chảy
ra, cho vừng và bột phục linh
đánh đều, làm thành cục nhỏ.
Mỗi cục 30-40g. Sau khi ăn sáng
thì ăn một miếng. Có thể sao
vàng vừng lên, giã thành bột
cho phục linh và đường vào,
luyện với mật ong. Mỗi lần dùng
20-30g.
16. Ho khan: Vừng đen 120g,
đường trắng 30g, rang lẫn để
ăn.
17. Viêm khí quản mạn tính:
vừng 100g, gừng sống 50g
cùng giã nát, vắt lấy nước. Uống
đều.
18. Huyết áp cao: Vừng đen, đậu
xanh với lượng bằng nhau. Đem
rang, nghiền bột. Mỗi ngày hai
lần, mỗi lần 50g. Uống với nước.
19. Động mạch bị cứng, bệnh
tim bị bọc mỡ: Vừng vàng, táo
tầu có lượng bằng nhau. Đem
vừng rang, giã nhỏ. Táo chín bóc
bỏ vỏ và hạt. Đánh nhuyễn trộn
với vừng thành viên hoàn. Mỗi
ngày hai lần. Mỗi lần 6g, ăn liên
tục